Nội khí quản là gì? Các công bố khoa học về Nội khí quản
Nội khí quản là một thuật ngữ trong Y học để chỉ hệ thống các đường khí quản và phế quản nằm trong cơ thể người. Nội khí quản bao gồm cả khí quản chính (trachea...
Nội khí quản là một thuật ngữ trong Y học để chỉ hệ thống các đường khí quản và phế quản nằm trong cơ thể người. Nội khí quản bao gồm cả khí quản chính (trachearia) và các nhánh nhỏ hơn của nó, gồm cả các ống phế quản (bronchi) và các nhánh nhỏ hơn của chúng (bronchioles). Nhiệm vụ chính của nội khí quản là dẫn dòng không khí từ mũi và miệng vào phổi, để cung cấp ôxy cho cơ thể và loại bỏ khí cacbonic (CO2). Ngoài ra, nội khí quản còn có vai trò bảo vệ hệ thống hô hấp khỏi sự xâm nhập của các vi trùng, bụi, chất cấp dưỡng và các chất gây kích thích.
Nội khí quản bao gồm các thành phần và chức năng sau:
1. Khí quản chính (trachearia): Khí quản chính là ống khí dẫn không khí từ hầu hết mũi và miệng vào phổi. Nó nằm sau xương ức và phía trước cột sống. Khí quản chính có đường kính khoảng 2,5 cm và chứa các thành phần sợi cơ và sợi sợi tiết chất nhầy, giúp tạo một lớp bảo vệ để ngăn những thể ngoại sinh xâm nhập vào phổi.
2. Ong phế quản (bronchi): Khí quản chính chia thành hai phần được gọi là ống phế quản trái và ống phế quản phải, đi vào phổi tương ứng. Ở mỗi phổi, ống phế quản tiếp tục chia nhánh thành các ống phế quản nhỏ hơn.
3. Các ống phế quản nhỏ (bronchioles): Các ống phế quản nhỏ là các nhánh nhỏ trong hệ thống nội khí quản. Chúng có đường kính nhỏ hơn và số lượng nhiều hơn so với ống phế quản, và chứa các thành phần sợi cơ mạnh mẽ giúp điều chỉnh việc mở và thông khí của chúng.
4. Tuyến nhầy (glandular cells): Trong các thành mạch ống phế quản và các ống phế quản nhỏ, có những tuyến nhầy sản xuất chất nhầy (mucus). Chất nhầy có tác dụng bảo vệ và làm ẩm các màng nhầy ở bên trong nội khí quản, giúp loại bỏ bụi bẩn và chất cấp dưỡng nhờ cơ chế chuyển động từ dưới lên.
5. Các mao mạch (cilia): Bên cạnh tuyến nhầy, nội khí quản còn chứa các tế bào nhỏ có nhiều lông nhỏ gọi là mao mạch. Mao mạch có khả năng chuyển động, tạo một luồng lượng chảy trên bề mặt của nội khí quản, giúp di chuyển chất nhầy từ dưới lên, loại bỏ bụi bẩn và vi khuẩn ra khỏi hệ thống hô hấp.
Hệ thống nội khí quản là một phần quan trọng trong hệ thống hô hấp của cơ thể, giúp cung cấp ôxy và loại bỏ khí cacbonic. Mỗi thành phần trong nội khí quản đều đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự thông khí, lọc các tác nhân gây kích thích và bảo vệ hệ thống hô hấp.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nội khí quản":
Việc phân loại tình trạng hẹp đường hô hấp đã trở thành một vấn đề trong nhiều năm qua. Do đó, việc so sánh kích thước đường hô hấp giữa các phòng ban và giữa các khoa vẫn gặp khó khăn. Hệ quả là việc so sánh các can thiệp điều trị trở nên khó khăn hơn. Một hệ thống được đề xuất với cấu trúc đơn giản, có thể tái tạo và dựa trên tiêu chuẩn tham chiếu có sẵn. Các ống nội khí quản, được sản xuất theo tiêu chuẩn cao về độ chính xác và độ tin cậy, có thể được sử dụng để xác định kích thước của một đường hô hấp bị tắc tại điểm nhỏ nhất của nó. Ống nội khí quản mà sẽ đi qua lòng ống, nếu có, và chịu được áp suất rò rỉ bình thường (10 đến 25 cm H2O), có thể được so sánh với kích thước ống nội khí quản phù hợp với độ tuổi dự kiến. Bằng cách sử dụng đường kính bên ngoài của các ống nội khí quản, tỷ lệ phần trăm tối đa của sự tắc nghẽn đường hô hấp có thể được xác định. Chúng tôi trình bày một phép chuyển đổi kích thước ống thành thang điểm phân loại đã được đề xuất: cấp I lên tới 50% tắc nghẽn, cấp II từ 51% đến 70%, và cấp III trên 70% với bất kỳ lòng ống có thể phát hiện được. Một đường hô hấp không có lòng ống được phân loại vào cấp IV.
Đối với bệnh nhân nhi, sevoflurane có thể là một sự thay thế cho halothane, chất gây mê được sử dụng phổ biến nhất để khởi mê qua đường hô hấp. Các đặc điểm về khởi mê, duy trì và tỉnh táo đã được nghiên cứu trên 120 trẻ em không sử dụng thuốc tiền mê, từ 1-12 tuổi, được phân ngẫu nhiên để nhận một trong ba chế độ gây mê: sevoflurane với oxy (nhóm S), sevoflurane với oxide nitrous và oxy (nhóm SN), hoặc halothane với oxide nitrous và oxy (nhóm HN).
Thuốc gây mê được truyền (qua hệ thống Mapleson D, F hoặc Bain) bắt đầu với việc áp dụng mặt nạ trong các liều tăng dần để đạt nồng độ truyền đến tối đa là 4.5% halothane hoặc 7% sevoflurane. Nồng độ cuối thở ra của chất gây mê và vị trí dây thanh quản được ghi nhận tại thời điểm đặt nội khí quản. Thời gian từ lúc áp dụng mặt nạ đến khi mất phản xạ lông mi, đặt nội khí quản, rạch phẫu thuật, và ngừng thuốc gây mê được đo đạc. Nhịp tim, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, và trung bình, cũng như nồng độ chất gây mê cuối thở ra được đo ở các khoảng thời gian cố định. Thời gian gây mê tính theo giờ MAC được tính toán. Nồng độ cuối thở ra của chất gây mê được điều chỉnh về 1 MAC (0.9% halothane, 2.5% sevoflurane) ít nhất là 10 phút trước khi kết thúc cuộc phẫu thuật. Các khoảng thời gian từ khi ngừng thuốc gây mê đến thời điểm gấp háng hoặc có phản xạ chống cự, rút ống nội khí quản, dùng thuốc giảm đau đầu tiên sau phẫu thuật, và đạt tiêu chí ra khỏi phòng hồi tỉnh được đo đạc. Máu tĩnh mạch được lấy mẫu tại lúc khởi mê, lúc kết thúc gây mê, và 1, 4, 6, 12, và 18-24 giờ sau khi ngừng thuốc gây mê để xác định hàm lượng fluoride vô cơ trong huyết tương.
Khởi mê bằng thuốc gây mê đạt tiêu chuẩn trong các nhóm SN và HN. Khởi mê ở nhóm S đi kèm với tỷ lệ kích động cao đáng kể (35%) so với các nhóm khác (5%), dẫn đến thời gian đặt nội khí quản kéo dài. Nồng độ khí gây mê tối thiểu cuối thở ra tại thời điểm đặt nội khí quản lớn hơn đáng kể ở các bệnh nhân nhận halothane hơn là sevoflurane. Thời gian khởi mê, vị trí dây thanh quản khi đặt nội khí quản, thời gian rạch, thời lượng gây mê, và thời lượng MAC đều tương tự trong cả ba nhóm. Trong giai đoạn tỉnh táo, thời gian gấp háng tương đương giữa ba nhóm, trong khi thời gian rút ống nội khí quản, dùng thuốc giảm đau đầu tiên, và đạt tiêu chuẩn ra khỏi phòng hồi tỉnh lớn hơn đáng kể ở nhóm HN so với nhóm S và SN. Nhịp tim và huyết áp tâm thu trung bình giảm trong quá trình khởi mê ở nhóm HN nhưng không giảm ở các nhóm S và SN. Nồng độ fluoride trong huyết thanh tối đa ở tất cả bệnh nhân là 28 microM.
Sevoflurane cùng với oxide nitrous cung cấp điều kiện khởi mê và đặt nội khí quản đạt yêu cầu; tuy nhiên, khởi mê bằng sevoflurane mà không có oxide nitrous có liên quan đến tỷ lệ kích động bệnh nhân cao và thời gian đặt nội khí quản kéo dài. Có sự giảm nhịp tim và huyết áp tâm thu lớn hơn khi khởi mê với halothane so với sevoflurane; tuy nhiên, những khác biệt này có thể liên quan đến liều lượng. Thời gian tỉnh táo nhanh hơn với sevoflurane so với halothane phù hợp với độ tan thấp của sevoflurane trong máu và các mô. Trẻ em nhận sevoflurane lên tới 9.6 MAC-giờ không phát triển nồng độ fluoride huyết thanh cao.
Một kỹ thuật gây mê cho phẫu thuật vi phẫu thanh quản được mô tả và đánh giá bằng cách sử dụng truyền tĩnh mạch propofol và lignocaine tại chỗ, với bệnh nhân thở một cách tự phát mà không cần ống nội khí quản. Tám mươi bệnh nhân trưởng thành được chia thành hai nhóm theo tình trạng ASA của họ (Nhóm A; 58 ASA I và II; Nhóm B; 22 ASA III và IV) đã được phân tích. Điều kiện phẫu thuật tốt ở tất cả nhưng một trường hợp. Gây mê tốt được đạt được ở khoảng 70% bệnh nhân. Nhu cầu về propofol ít hơn ở Nhóm B. Huyết áp giảm đáng kể sau khi khởi mê (P < 0.001) nhưng trở lại gần giá trị trước phẫu thuật sau mười phút ở bệnh nhân Nhóm A, trong khi hồi phục chậm hơn ở Nhóm B. Ngừng thở xảy ra trong quá trình khởi mê ở khoảng 40% bệnh nhân tổng thể. Paco2 cho thấy sự gia tăng nhỏ tương tự ở cả hai nhóm. Ôxy hóa là đầy đủ. Kết quả cho thấy propofol là một sự truyền tĩnh mạch trong kỹ thuật không cần ống này là chấp nhận được. Do kỹ thuật này được coi là có thể nguy hiểm ở những bệnh nhân có tắc nghẽn đường thở trên, nên những bệnh nhân như vậy không được đưa vào nghiên cứu này.
Kích thích buồng trứng là một quy trình thường quy trong sinh sản hỗ trợ nhằm kích thích sự phát triển của nhiều nang trứng ở những loài chỉ rụng trứng một lần một cách tự nhiên, bao gồm cả gia súc và con người. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích các thay đổi được tạo ra trong hệ gen nội mạc tử cung liên quan đến hiện tượng siêu rụng trứng ở bò cái thịt và đặt những quan sát này trong bối cảnh dữ liệu trước đó của chúng tôi về các thay đổi trong hệ gen nội mạc tử cung liên quan đến nồng độ progesterone (P4) gia tăng trong phạm vi sinh lý và các thay đổi đó ở phôi do hiện tượng siêu rụng trứng gây ra. Nồng độ P4 trung bình trong huyết tương cao đáng kể từ ngày 4 đến ngày 7 ở những con bò cái siêu rụng trứng so với nhóm đối chứng chưa được kích thích (P < 0.05). Phân tích giữa các nhóm cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong hồ sơ biểu hiện gen tổng thể của nội mạc tử cung ở bò cái đối chứng chưa được kích thích (n = 5) so với bò cái siêu rụng trứng (n = 5). Điều này được phản ánh trong số lượng các gen được biểu hiện khác nhau (DEGs) được xác định giữa hai nhóm với 795 gen được tăng cường biểu hiện và 440 gen bị giảm biểu hiện trong nội mạc tử cung siêu rụng trứng. Số lượng gen được thay đổi do siêu rụng trứng (n = 1,234) gấp mười lần so với số lượng gen bị thay đổi do nồng độ P4 gia tăng trong phạm vi sinh lý bằng cách cấy thiết bị phóng thích P4 vào âm đạo (n = 124), chỉ có 22 DEGs là chung cho cả hai mô hình can thiệp P4. Ít hơn các gen bị ảnh hưởng bởi hiện tượng siêu rụng trứng ở phôi so với nội mạc tử cung (443 so với 1,234 DEGs, tương ứng), và cách mà các gen bị thay đổi là khác nhau với 64.5% số gen được tăng cường biểu hiện và 35.5% số gen bị giảm biểu hiện trong nội mạc tử cung, trong khi đó 98.9% DEGs được tăng cường biểu hiện ở phôi. Tóm lại, siêu rụng trứng gây ra những thay đổi đáng kể trong hệ gen của nội mạc tử cung, điều này là khác biệt so với những thay đổi trong phôi.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10